Sẩy thai liên tiếp là gì? Các công bố khoa học về Sẩy thai liên tiếp

Sẩy thai liên tiếp là tình trạng mà một phụ nữ có ba hoặc nhiều hơn những sẩy thai liên tiếp, liên tục xảy ra. Điều này có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe và tâm...

Sẩy thai liên tiếp là tình trạng mà một phụ nữ có ba hoặc nhiều hơn những sẩy thai liên tiếp, liên tục xảy ra. Điều này có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe và tâm lý của phụ nữ, và là một thách thức lớn trong việc mang thai và nuôi dưỡng một em bé. Nguyên nhân của sẩy thai liên tiếp có thể bao gồm vấn đề di truyền, rối loạn hormone, tổn thương tử cung, khối u tử cung, các vấn đề về hệ miễn dịch, nhiễm trùng và sử dụng chất gây nghiện. Để chẩn đoán và điều trị sẩy thai liên tiếp, phụ nữ cần được thăm khám và theo dõi sát sao bởi bác sĩ.
Sẩy thai liên tiếp được định nghĩa là việc một phụ nữ có ba hoặc nhiều hơn những sẩy thai trong thời kỳ mang thai. Để được coi là sẩy thai liên tiếp, các sẩy thai phải xảy ra liên tục mà không có sự thành công mang thai ở giữa chúng.

Nguyên nhân chính của sẩy thai liên tiếp có thể bao gồm:

1. Vấn đề di truyền: Một số trường hợp sẩy thai liên tiếp có thể do các vấn đề di truyền, chẳng hạn như các đột biến gen hoặc dị tật gen di truyền.

2. Rối loạn hormone: Các rối loạn hormone có thể làm suy yếu tử cung và gây rối loạn chu kỳ kinh nguyệt, làm cho việc duy trì thai nghén trở nên khó khăn.

3. Tổn thương tử cung: Bất kỳ tổn thương hoặc vấn đề với tử cung có thể làm cho việc duy trì thai nghén trở nên khó khăn và dẫn đến sẩy thai.

4. Khối u tử cung: Một khối u tử cung như u xơ tử cung có thể ảnh hưởng đến khả năng của tử cung giữ và nuôi dưỡng thai nghén.

5. Rối loạn hệ miễn dịch: Các rối loạn hệ miễn dịch như hội chứng tự miễn dịch gây chứng tử cung đái tháo đường có thể gây ra sẩy thai liên tiếp.

6. Nhiễm trùng: Nhiễm trùng cũng có thể gây ra sẩy thai liên tiếp, đặc biệt là nếu nó ảnh hưởng đến tử cung hoặc niêm mạc tử cung.

7. Sử dụng chất gây nghiện: Sử dụng chất gây nghiện như thuốc lá, rượu và ma túy cũng có thể tăng nguy cơ sẩy thai liên tiếp.

Để chẩn đoán sẩy thai liên tiếp, bác sĩ có thể yêu cầu một loạt các xét nghiệm để xác định nguyên nhân cụ thể. Điều trị sẽ phụ thuộc vào nguyên nhân cụ thể của sẩy thai liên tiếp và có thể bao gồm việc điều chỉnh hormone, can thiệp phẫu thuật hoặc sử dụng kỹ thuật như phôi tạo giả. Sự hỗ trợ tâm lý và tư vấn cũng được coi là quan trọng để giúp phụ nữ vượt qua khó khăn và tìm kiếm phương pháp mang thai an toàn và hiệu quả trong tương lai.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "sẩy thai liên tiếp":

ĐÁNH GIÁ LIÊN QUAN GIỮA CÁC ĐA HÌNH GEN GÂY RỐI LOẠN CHUYỂN HÓA HOMOCYSTEINE VỚI SẢY THAI LIÊN TIẾP
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 1 - 2021
Mục tiêu: đánh giá mối liên quan giữa các đa hình gen MTHFR C677T, MTHFR A1298C, MTR A2756G và MTRR A66G gây rối loạn chuyển hóa homocysteine với sảy thai liên tiếp không rõ nguyên nhân ở phụ nữ Việt Nam. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu bệnh – chứng, đa trung tâm tiến hành trên 92 phụ nữ sảy thai liên tiếp không rõ nguyên nhân và 92 phụ nữ khỏe mạnh. Kết quả: tuổi trung bình của nhóm bệnh và nhóm chứng lần lượt là 29,58 ± 2,91 và 30,69 ± 2,44. Allele đột biến của đa hình MTHFR C677T và MTR A2756G gặp nhiều hơn có ý nghĩa thống kê ở những bệnh nhân sảy thai liên tiếp (p > 0,05), các đột biến này làm tăng nguy cơ sảy thai liên tiếp lần lượt là 2,33 và 1,82 lần so với nhóm chứng (OR 2,33; 95% CI, 1,38-3,96 và OR 1,82; 95% CI, 1,02-3,29). Mặt khác, đột biến thay thế nucleotid A thành C ở gen MTHFR A1298C và thay thế nucleotid A thành G ở gen MTRR A66G không không làm tăng nguy gây bệnh trong nghiên cứu của chúng tôi (P > 0,05). Kết luận: đa hình MTHFR C677T và MTR A2756G là yếu tố nguy cơ của sảy thai liên tiếp ở phụ nữ Việt Nam, kết quả này tương đồng với nhiều nghiên cứu trên thế giới. Trên cơ sở đó chúng tôi kiến nghị tiến hành xét nghiệm phát hiện đa hình gen liên quan chuyển hóa homocysteine ở những người phụ nữ xảy thai liên tiếp chưa rõ nguyên nhân.
#sảy thai liên tiếp #homocysteine #MTHFR C677T #MTHFR A1298C #MTR A2756G #MTRR A66G
BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ FOLAT Ở BỆNH NHÂN SẨY THAI LIÊN TIẾP MANG GEN MTHFR ĐỘT BIẾN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 2 - 2021
Sảy thai liên tiếp và đột biến gen MTHFR được ghi nhận có liên quan rõ rệt ở chủng tộc da vàng. Điều trị folat có thể làm giảm nồng độ homocystein trong máu cải thiện kết cục thai kỳ. Mục tiêu: của nghiên cứu đánh giá kết quả điều trị bằng folate đối với bệnh nhân mang gen đột biến MTHFR C677T tại bệnh viện Phụ Sản Hà Nội. Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 30 bệnh nhân có tiền sử sẩy thai liên tiếp mang gen đột biến MTHFR được điều trị 5 mg Folat/ ngày trong 3 tháng. Kết quả 100% bệnh nhân mang gen MTHFR dạng dị hợp tử CT. Nồng độ trung bình của homocystein trước và sau điều trị lần lượt là 10,3±3,47; 6,8±2,48µmol/l, ( p=0,000). Kết luận: điều trị folat trong 3 tháng liên tục làm giảm nồng độ homocystein trong máu.
#sảy thai liên tiếp #đột biến MTHFR 677 #homocystein
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CỦA THAI PHỤ SẨY THAI LIÊN TIẾP KHÔNG RÕ NGUYÊN NHÂN MANG GEN METHYLENETETRAHYDROFOLATE REDUCTASE BỆNH LÝ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 2 - 2021
Nguyên nhân sẩy thai liên tiếp rất phức tạp và khó xác định, trong đó đa hình đơn gen MTHFR bệnh lý (C677T, A1298C) là một nguyên nhân mới cần tìm hiểu. Nghiên cứu nhằm: Xác định mối liên quan giữa MTHFR và bệnh lý sảy thai liên tiếp; Mô tả đặc điểm lâm sàng của những thai phụ có tiền sử sảy thai liên tiếp mang gen MTHFR (C677T và A1298C) bệnh lý. Đây là 1 nghiên cứu bệnh- chứng, 2 nhóm đều được xác định kiểu gen của gen MTHFR C677T/A1298C bằng phương pháp PCR. Nghiên cứu thu được 43 thai phụ thuộc nhóm bệnh và 30 thai phụ thuộc nhóm chứng. Thời điểm thai sẩy trung bình trong tiền sử của nhóm mang kiểu gen bệnh lý là 8,47 tuần. MTHFR C677T làm tăng nguy cơ xuất hiện triệu chứng doạ sẩy thai trong 3 tháng đầu (p=0,043). Kết luận: Đa hình đơn gen MTHFR C677T    tăng xuất hiện triệu chứng doạ sẩy thai trong 3 tháng đầu.
#MTHFR C677T #MTHFR A1298C #sẩy thai liên tiếp không rõ nguyên nhân
Kết quả xét nghiệm kháng thể kháng Phospholipid ở phụ nữ có tiền sử sẩy thai liên tiếp đến 12 tuần tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ương
Tạp chí Phụ Sản - Tập 13 Số 2A - Trang 15-19 - 2015
Mục tiêu: Nhận xét kết quả xét nghiệm kháng thể kháng phospholipid ở phụ nữ có tiền sử sẩy thai liên tiếp đến 12 tuần tại Bệnh viện phụ sản trung ương (BPSTW). Phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 800 phụ nữ có thai hoặc không có thai, có tiền sử sẩy thai liên tiếp (STLT) từ 2 lần trở lên, tuổi thai lúc sẩy ≤ 12 tuần, đến khám tại BVPSTW từ 02/2013 đến 8/2014. Kết quả: 47,9% phụ nữ STLT dương tính với ít nhất 1loại kháng thể phospholipid (aPL), tỷ lệ dương tính với kháng thể kháng lupus (LA) là 10,3%, 40% dương tính với kháng thể kháng cardiolipin (aCL), dương tính với beta 2-glycoprotein1(β2GP1) là 7,8%. 23,4% phụ nữ STLT có kháng thể dương tính lần 2 - hội chứng antiphospholipid (APS) dương tính, trong đó dương tính với LA là 5,8% ; 20.5% với aCL; 0,8% dương tính với cả IgM và IgG aCL, 4,9% dương tính với β2GP1. Kết luận: 47,9% phụ nữ có tiền sử STLT dương tính với ít nhất 1 loại kháng thể kháng phospholipid (aCL, LA, aβ2GP1); 23,4% phụ nữ có aPL dương tính lần 2 (hội chứng antiphospholipid (APS) dương tính ) và 24,5 phụ nữ tiền sử STLT có aPL dương tính thoáng qua.
#Sẩy thai liên tiếp #kháng thể kháng phospholipid (aPL) #hội chứng antiphospholipid (APS)
Đánh giá hiệu quả của aspirin và heparin trọng lượng phân tử thấp trong điều trị sảy thai liên tiếp do hội chứng kháng phospholipid
Tạp chí Phụ Sản - Tập 13 Số 3 - Trang 107-110 - 2015
Hội chứng kháng phospholipid là nguyên nhân hay gặp nhất dẫn tới sảy thai liên tiếp. Có nhiều phác đồ sử dụng thuốc chống đông máu đã được sử dụng trên thế giới. Mục tiêu của nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả của aspirin và heparin trọng lượng phân tử thấp trong điều trị sảy thai liên tiếp do hội chứng kháng phospholipid. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng không ngẫu nhiên không đối chứng, tiến cứu. Bệnh nhân có tiền sử sảy thai liên tiếp mới có thai được xét nghiệm tìm kháng thể kháng phospholipid, bệnh nhân dương tính 2 lần sẽ được điều trị bằng lovenox 20mg/ngày phối hợp với aspirin 100mg/ngày. Kết quả: 268 bệnh nhân sảy thai liên tiếp trong đó nhóm nguyên nhân mắc hội chứng kháng phospholipid chiếm 10,82%. Tỷ lệ sinh sống khi được điều trị đạt 89,66%. Không có trường hợp nào xuất huyết trong quá trình mang thai, trong chuyển dạ và sau sinh. Các biến chứng: thai chậm phát triển trong tử cung, thiểu ối, sinh non vẫn xuất hiện ở nhóm dương tính 2 lần với tỷ lệ tương ứng là: 31,81%, 20,83%, 26,09%. Kết luận: Điều trị phối hợp aspirin và heparin trọng lượng phân tử thấp cho kết quả tốt, không có tai biến xuất huyết.
#Hội chứng kháng phospholipid #sảy thai liên tiếp #lovenox #asprin
Nhận xét kháng thể Lupus đông máu và kháng Cardiolipin ở bệnh nhân sảy thai liên tiếp dưới 12 tuần
Tạp chí Phụ Sản - Tập 12 Số 2 - Trang 112-115 - 2014
Hội chứng kháng phospholipid (APS) là một nguyên nhân có thể chữa khỏi hoàn toàn của sảy thai liên tiếp. Mục đích nghiên cứu: nhằm phân tích sự biến đổi của 2 kháng thể kháng phospholipid: lupus đông máu (LA) và kháng cardiolipin (aCL) trong bệnh lý STLT. Phương pháp: Nghiên cứu tiến hành trên các bệnh nhân STLT hiện mới có thai đến khám và điều trị tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ương. Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến cứu. Kết quả cho thấy trên 302 bệnh nhân STLT, APS chiếm tỷ lệ 11,27%. Kháng thể LA dương tính 2 lần chiếm tỷ lệ: 0,38%, kháng thể kháng cardiolipin IgG và IgM dương tính 2 lần chiếm 10,9%. Không có mối tương quan tuyến tính giữa giá trị dương tính của 2 lần thử aCL. Kết luận: Kháng thể LA có vai trò không rõ ràng trong bệnh lý STLT tuổi thai dưới 12 tuần. Kháng thể kháng cardiolipin loại IgM dương tính thoáng qua có liên quan đến tình trạng viêm nhiễm sinh dục. Kháng thể kháng cardiolipin loại IgG dương tính không cao nhưng ít thay đổi trong bệnh lý STLT.
#sảy thai liên tiếp #hội chứng kháng phospholipid #kháng thể kháng phospholipid
Xây dựng kỹ thuật xác định tính đa hình của gen MTHFR ứng dụng trong tiên lượng tình trạng sảy thai liên tiếp
Mục tiêu: Nghiên cứu này được thực hiện nhằm phát triển phương pháp xét nghiệm nhanh và chính xác các đa hình tại 2 điểm 677 và 1298 của gen MTHFR bằng phương pháp realtime PCR và bước đầu đánh giá giá trị của xét nghiệm đa hình kiểu gen trong chẩn đoán và định hướng điều trị sảy thai liên tiếp. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả theo dõi dọc. Phương pháp xét nghiệm realtime PCR được xây dựng và tối ưu, sau đó được đánh giá so sánh với phương pháp sử dụng bộ kit thương mại CVD StripAssay® T (ViennaLab). 200 mẫu người bình thường được thu thập để xác định tỷ lệ kiểu gen của quần thể và 48 mẫu bệnh nhân có tiền sử sảy thai liên tục được sử dụng để đánh giá ảnh hưởng của đa hình tại 2 điểm 677 và 1298 của gen MTHFR. Kết quả và kết luận: Nghiên cứu cho thấy phương pháp realtime PCR được phát triển có khả năng xác định chính xác các đa hình của gen MTHFR với nồng độ DNA mẫu thấp (2-5ng/µL) với ưu điểm nhanh và hạn chế tín hiệu nhiễu. Nghiên cứu cũng đưa ra mô hình kiểu gen MTHFR với 2 điểm đột biến 677 và 1298 ở quần thể người Việt Nam. Đồng thời cho thấy có một mối tương quan giữa tỷ lệ kiểu gen dị hợp tử cao với tình trạng bệnh lý sảy thai liên tục ở nữ giới. Từ đó cho thấy việc xác định kiểu gen MTHFR là một marker tiềm năng để xác định nguyên nhân vô sinh ở nữ giới, dự đoán tình trạng sảy thai cũng như đưa ra phương pháp điều trị thích hợp. Từ khóa: Sảy thai tái diễn, đa hình MTHFR, tỷ lệ kiểu gen.
#Sảy thai tái diễn #đa hình MTHFR #tỷ lệ kiểu gen
Bất thường cấu trúc nhiễm sắc thể của thai chết lưu
Tạp chí Phụ Sản - Tập 12 Số 2 - Trang 96-98 - 2014
Mục tiêu: Nghiên cứu các dạng bất thường cấu trúc nhiễm sắc thể (NST) của thai chết lưu (TCL) và liên quan của nhiễm sắc thể bất thường đó với nhiễm sắc thể của bố mẹ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 176 thai chết lưu được lấy mẫu tua rau để nuôi cấy tế bào và phân tích NST. Kết quả: đã phát hiện 7/176 (3,98%) trường hợp TCL bất thường cấu trúc, trong đó có 6 trường hợp dạng thuần, một trường hợp khảm. Dạng chuyển đoạn NST chiếm tỷ lệ 85,7%, còn lại 14,3% là dạng đảo đoạn NST. Nghiên cứu cho thấy 50% các bất thường này có nguồn gốc từ mẹ, 16,7% có nguồn gốc từ bố, còn lại 33,3% là đột biến mới. Kết luận: Bất thường cấu trúc NST là một trong những nguyên nhân gây thai chết lưu, và thường có liên quan tới những bất thường có sẵn từ bố, mẹ. Việc xác định dạng bất thường cấu trúc NST của các TCL có vai trò quan trọng với các cặp vợ chồng có tiền sử thai lưu nhiều lần trong tiên lượng và tư vấn di truyền cho những lần mang thai sau.
#thai chết lưu #tua rau #bất thường cấu trúc NST #sảy thai liên tiếp
Ảnh hưởng của phân mảnh DNA tinh trùng đến kết quả hỗ trợ sinh sản và sẩy thai liên tiếp
Tạp chí Phụ Sản - Tập 21 Số 2 - Trang 21-26 - 2023
Tổn thương DNA của tinh trùng (DNA fragmentation index - DFI) có thể ảnh hưởng không chỉ đến quá trình thụ tinh mà còn lên cả sự biểu hiện gen và sự hình thành phôi thai. Tuy nhiên, tác động của DFI và chất lượng phôi lên kết quả mang thai vẫn còn gây tranh cãi. Một số nghiên cứu đã chỉ ra mối liên quan giữa DFI cao và chất lượng phôi với sự hình thành phôi và điểm chất lượng phôi. Các nghiên cứu gần đây đã báo cáo rằng DFI cao liên quan với sẩy thai sau ICSI và sẩy thai tự nhiên liên tiếp. Mặc dù vậy, cho đến nay điểm cắt giá trị DFI liên quan với kết cục bất lợi trong thai kỳ vẫn chưa rõ ràng. Ngưỡng DFI từ 20% đến 30% thường được sử dụng trong một số nghiên cứu để đánh giá mối quan hệ giữa DFI với các thông số tinh dịch, giữa DFI với chất lượng phôi và kết quả mang thai liên quan đến kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Yếu tố noãn cần được xem xét trong mối liên quan với sự hình thành phôi và thất bại thai kỳ. Do các kết quả nghiên cứu không đồng nhất, hiện chưa đủ bằng chứng để khuyến cáo thực hiện xét nghiệm phân mảnh DNA tinh trùng một cách thường quy trong đánh giá sinh sản nam. Tuy nhiên, các Hiệp hội đều kết luận rằng có bằng chứng mạnh về vai trò xét nghiệm phân mảnh DNA của tinh trùng trong các trường hợp thất bại làm tổ và sẩy thai liên tiếp (STLT). Các nghiên cứu sâu hơn về tế bào tinh trùng có thể phát hiện và ngăn ngừa các bất thường di truyền và biểu sinh có nguồn gốc từ người cha, giúp giảm tỷ lệ vô sinh do yếu tố nam giới. Đặc biệt phân mảnh DNA tinh trùng có thể có vai trò nguyên nhân mới của STLT hoặc thất bại thụ tinh.
#Phân mảnh DNA tinh trùng #sẩy thai liên tiếp #hỗ trợ sinh sản
NHẬN XÉT KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ THAI 3 THÁNG ĐẦU DỌA SẨY TRÊN SẢN PHỤ CÓ TIỀN SỬ LƯU VÀ HOẶC SẨY THAI LIÊN TIẾP TẠI BỆNH VIỆN SẢN NHI NGHỆ AN TỪ 1/2022 – 6/2022
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 63 Số 8 - 2022
Mục tiêu: Sẩy thai liên tiếp là hiện tượng có từ 2 lần sẩy thai liên tục trở lên, thai nhi bị tốngxuất ra khỏi buồng tử cung trước 22 tuần. Chẩn đoán sớm một số nguyên nhân gây sẩy thai có thểcho kết quả điều trị rất khả quan.Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 52 bệnh nhân cótiền sử lưu và hoặc sẩy thai liên tiếp, có hồ sơ ghi đủ thông tin nghiên cứu, tại Bệnh viện Sản NhiNghệ An từ 1/2022 – 6/2022.Kết quả: Tỉ lệ thai phụ có tiền sử sẩy thai liên tiếp là 30% và tỉ lệ lưu thai liên tiếp là 88,8%.Sẩy và hoặc lưu thai trước đó không rõ nguyên nhân chiếm tỉ lệ cao nhất là 84,7%. Kết quả điều trịdọa sẩy thành công chiếm 75%, điều trị thất bại chiếm 25%. Thời gian nằm viện điều trị trung bìnhlà 18 ± 10,8 ngày.Kết luận: Tiền sử sẩy thai liên tiếp 30%; lưu thai liên tiếp 88,8%; không rõ nguyên nhân84,7%. Nhập viện đau bụng 40,4%. Điều trị thành công chiếm 75%, thất bại 25%. Thời gian nằmviện điều trị 18 ± 10,8 ngày.
#Dọa sẩy thai #sẩy thai liên tiếp #sẩy thai nhiều lần #thai chết lưu liên tiếp.
Tổng số: 10   
  • 1